Thứ Tư, 28 tháng 5, 2014

KHÁI NIỆM VỀ HUYỀN KHÔNG PHONG THỦY

Giải thích về 2 chữ Huyền Không, Thẩm trúc Nhưng (tác giả bộ "Thẩm thị Huyền Không học") viết: Trong sách Pháp Ngôn của Dương Hùng viết "Huyền giả nhất dã" (tức Huyền là một), lời giải thích này khá rõ ràng. Nhưng đến chữ Không thì rất khó giải thích. Bởi vì "KHÔNG" không có nghĩa là trống không hoàn toàn, mà trong cái "KHÔNG" lại bao hàm cái "CÓ". Các học giả Thiên Trúc (Ấn độ) xưa luận giải như sau:

Sắc bất dị không
Không bất dị sắc
Sắc tức thị không
Không tức thị sắc
Thụ tưởng hành thức
Diêc phục như thị

(Nghĩa là: Vật không khác gì "không", "Không" không khác gì vật. Vật tức là "không", "không" tức là vật. Những điều con người cảm thụ và suy nghĩ được cũng vậy). 


Như vậy "KHÔNG" bao hàm cả "khiếu" (tức mấu chốt của sự vật). "Khiếu" có 9 cái nên gọi là "Cửu khiếu", cũng là nói hai chữ "Huyền Không" bao hàm từ 1 tới 9. Nhưng đây không phải đơn thuần là số đếm, mà còn là mấu chốt để định vị không gian và thời gian chứa đựng sự vật. Vì vậy mới dùng hai chữ Huyền Không để làm đại biểu.

Nói một cách khác, Huyền Không là dùng các con số từ 1 tới 9 để biểu thị, quan sát mọi sự thay đổi, biến hóa của sự vật. Như chúng ta đã biết, mọi vật thể, cũng như vũ trụ đều được cấu trúc bằng những hạt nhân nguyên tử hay những hành tinh di chuyển theo một quỹ đạo hình tròn. Còn 9 con số của Huyền Không khi biểu thị sự biến hóa của sự vật sẽ di chuyển theo một quỹ đạo nhất định. Quỹ đạo này được gọi là vòng "Lượng thiên Xích"(sẽ nói trong 1 bài khác).

Bàn về vòng Lượng thiên xích, sách "Trạch vận tân án" có viết:

Thùy đắc Lượng thiên Xích nhất chi,
Bộ lường trung, ngoại cổ kim thi,
Tử sinh đắc thất tùy thám sách,
Quá hiện vị lai liễu liễu tri

Tạm dịch:

Nếu đã nắm được vòng Lượng thiên Xích,
Có thể đo lường mọi chuyện trong, ngoài xưa nay,
Tìm hiểu được sự sống chết và được mất,
Biết rõ quá khứ, hiện tại và tương lai.

Cho nên Huyền không học là môn Phong thủy dựa vào sự di chuyển của 9 con số theo quỹ đạo của vòng Lượng thiên Xích trên đồ hình Bát quái mà đoán định sự cát, hung, được, mất của từng căn nhà (dương trạch) hay phần mộ (âm trạch).

Nhưng tại sao lại phải dựa trên đồ hình Bát quái? Đó là vì ngay từ thời xa xưa, cổ nhân đã biết phác họa ra Bát quái để thu tóm mọi biến chuyển của Trời (thiên văn), Đất (địa lý) vào đó. Theo "Lục kinh đồ", phần "Ngưỡng quan thiên văn đồ" thì "Phục Hy quan sát thiên văn mà vẽ ra Bát quái. Do đó, phàm những gì thuộc về thiên văn như vòng vận hành của mặt trời, mặt trăng, tinh tú, ngày tháng, bốn mùa. . . không gì mà Bát quái không thu tóm". Còn sách Phủ Sát địa lý thì viết "Cúi xuống xem xét địa lý mà vạch ra 8 quẻ, cho nên phàm những gì liên quan tới lý lẽ của Đất (địa) như bốn phương chín châu, điểu, thú. thảo mộc, mười hai chi sở thuộc. . . không gì mà Bát quái không cai quản".

Như vậy, Bát quái chính là sự thu tóm những biến chuyển của Trời, Đất, còn sự di chuyển của 9 con số (còn được gọi là Cửu tinh) theo vòng Lượng thiên Xích chính là những biến hóa, thay đổi của sự vật. Kết hợp những yếu tố này với nhau, tức là đưa sự vận hành của Cửu tinh theo vòng Lượng thiên Xích vào trong đồ hình của Bát quái để thu tóm mọi biến chuyển của Trời, Đất và sự vật chung quanh, tức là những yếu tố khách quan bên ngoài có tác động, ảnh hưởng tới 1 căn nhà hay 1 ngôi mộ thì đương nhiên sẽ biết được vận khí tốt, xấu của căn nhà hay ngôi mộ đó theo từng thời gian nhất định. Đây chính là nguyên nhân của sự hình thành và phát triển của trường phái Phong thủy mang danh là "Huyền không học" (hay Huyền Không Phi tinh).

Về lai lịch của phái Huyền Không thì tuy không ai có thể xác định được chính xác nó được hình thành từ lúc nào hoặc do ai sáng lập, nhưng vì hầu hết những nguyên lý căn bản của phái này đều được trích dẫn từ những tác phẩm về Phong thủy nổi tiếng của Dương quân Tùng (một Phong thủy sư lỗi lạc thời tàn Đường) như "Thiên ngọc Kinh", "Thanh nang áo Ngữ", "Đô thiên Bảo chiếu kinh", cho nên có lẽ phái Huyền Không đã được hình thành từ Thế kỷ IX sau Công Nguyên, và Dương quân Tùng nếu không là người sáng lập thì cũng chính là người đã có công tạo dựng nền tảng và cơ sở vững chắc cho sự phát triển của phái Huyền Không.

Đến đầu thời Tống, danh sư Ngô cảnh Loan cho ra đời những tác phẩm như "Huyền Không bí chỉ" và "Huyền cơ phú" thì Huyền Không đã trở thành 1 trường phái rõ rệt, cũng như có 1 vị trí vững vàng trong nghệ thuật Phong thủy Trung Hoa. Sau này, các danh sư như Tưởng đại Hồng thời Minh, Chương trọng Sơn thời Thanh càng làm cho phái Huyền Không nổi bật lên với những luận đoán cực kỳ chính xác cả về âm trạch lẫn dương trạch.

Tuy nhiên, vì những nguyên lý của Huyền Không vào các thời đại đó đều được giữa hết sức bí mật, nên ít có ai biết hoặc hiểu về Huyền Không, trừ khi được chân truyền. Mãi đến cuối đời nhà Thanh, khi Thẩm trúc Nhưng cho công bố tác phẩm "Thẩm thị Huyền không học" thì những bí mật của Huyền Không mới được làm sáng tỏ. Từ đó đến nay, ảnh hưởng của Huyền Không phái càng ngày càng lan rộng trong đại chúng, nhất là đối với những người yêu thích Phong thủy, hoặc muốn xử dụng Phong thủy để cải tạo nhà cửa, mồ mả để làm cho cuộc sống gặp được nhiều thuận lợi và may mắn hơn.

LƯỢNG THIÊN XÍCH. St


Thứ Ba, 27 tháng 5, 2014

THẤT TINH ĐẢ KIẾP

Thất tinh đả kiếp là một yếu tố quan trọng trong Phong thủy Huyền không,do phần lớn những người nắm vững yếu tố này đều không muốn tiết lộ, nên vài trăm năm nay số người hiểu và vận dụng được có thể đếm trên đầu ngón tay. Đó là lý do các trường phái Huyền không ngày nay tranh luận rất nhiều về loại bố cục này,đồng thời đưa ra nhiều kiến giải khác nhau.

Tọa tý hướng ngọ, lập trong vận 8.

Thất tinh đả kiếp là phương thức đồng hợp Khí tương phản với đương vận,biến thù thành bạn,giúp tương thông Khí tam nguyên cửu vận,từ đó bảo đảm sự lưu thông của vượng Khí.Vì đây là một phương pháp giúp trạch vận "Tam nguyên bất bại" nên thất tinh đả kiếp mới lưu truyền từ đời này sang đời khác và thu hút sự quan tâm của nhiều người.

Hàm nghĩa của thất tinh đả kiếp

Tên đầy đủ của thất tinh đả kiếp là Bắc đẩu thất tinh đả kiếp, Bắc đẩu ở đây có nghĩa là khí nhập trung cung,còn Thất Tinh là chỉ ngôi sao nằm cách vận tinh ngược 7 vị trí,ví dụ như từ Tam bích đếm ngược 7 vị trí sẽ là Lục bạch, từ Lục bạch đếm ngược 7 vị trí sẽ là Cửu tử, từ Cửu tử đếm ngược 7 vị trí sẽ là Tam bích, sắp xếp theo phương pháp phi nghịch 7 sao này sẽ có 3 tổ hợp thứ tự số, đây chính là 3 tổ hợp Thất tinh đả kiếp trong Phong thủy Huyền không.Vị trí đếm ngược đến có Khí ngũ hành tương phản với chính Khí của ngũ hành trung cung, dễ gây tai họa,vì thế dùng thất tinh đả kiếp, lấy vận hiện tại để đoạt Khí tương lai nhằm đạt được mục đích chuyển hung thành cát.

Đoạt khí tương lai là dùng Khí Thượng nguyên cướp vượng Khí của Trung nguyên, khí của Trung nguyên cướp vượng Khí của Hạ nguyên.

Để có thất tinh đả kiếp thì cần phải có đủ 2 điều kiện, một là vượng tinh phải đáo hướng, hai là số của phi tinh ở 3 cung Ly Chấn Càn hoặc Tốn Khảm Đoài phải là quẻ phụ mẫu tam ban, tức là phải hình thành tổ hợp 1- 4-7, 2 - 5-8, 3 - 6 - 9. Nếu số của phi tinh ở 3 cung Ly Chấn Càn tạo thành phụ mẫu tam ban thì gọi là "Ly cung đả kiếp",còn số ở 3 cung Tốn Khảm Đoài tạo thành tam ban phụ mẫu thì gọi là "Khảm cung đả kiếp"

Nguyên lý của thất tinh đả kiếp

Xét trên tinh bàn,dù là vận mấy, kết quả của phi tinh bàn vẫn là số trung cung với số cung Ly hay cung Khảm hợp thành số sinh thành, hay hợp thập,như vậy Cửu cung thông Khí, âm dương hài hòa, tuy cách cục không vượng sơn vượng hướng,vẫn có tác dụng tương đương vượng Sơn vượng Hướng và không có tai họa.

Xét về ứng dụng thực tế.Ly Khảm ở chính giữa Tý Ngọ, là trục Bắc Nam trục của từ trường trái đất, chính Khí tương thông dễ đoạt Khí tương lai, chuyển hung thành cát.

Bố cục tinh bàn của thất tinh đả kiếp chỉ xảy ra khi song tinh hội hướng hay song tinh hội tọa, còn các tinh bàn khác (hướng khác) không có bố cục này.Trong vận 8 này có 6 cách cục đả kiếp, đó là Tý sơn Ngọ hướng, Qúy sơn Đinh hướng,Canh sơn Giáp hướng (chân đả kiếp) và Mão sơn Dậu hướng, Ất sơn Tân hướng, Bính sơn Nhâm hướng

Sáu cách cục đả kiếp nếu đả kiếp thành công là vượng cục. Nếu không đả kiếp được thì sẽ là cách cục Hạ thủy, riêng 2 cách cục Tý sơn Ngọ hướng và Qúy sơn Đinh hướng không phải là Sát tinh đáo sơn nên không kỵ nhiều, còn lại toàn là cách cục vượng tài nhưng tổn đinh ( tai họa về người ), vì có Sát tinh đáo sơn.


LƯỢNG THIÊN XÍCH. St

Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2014

LẠY PHẬT CÁCH NÀO ĐÚNG?

HỎI: Tôi được biết lạy Phật nên theo cách “ngũ thể đầu địa”, đại thể là hai chân, hai tay và đầu đụng mặt đất, tâm thanh tịnh và trang nghiêm. Tuy nhiên thực tế tôi thấy nhiều người lạy Phật với những cách thức khác nhau: Có người ngửa hai lòng bàn tay, trán cúi đặt vào lòng bàn tay. Có người thì úp hai bàn tay xuống đất, trán cúi đặt vào lưng bàn tay. Có người thì trán cúi chạm xuống đất, còn hai bàn tay ngửa đưa ra phía trước trán. Có người khi cúi đầu lạy xuống, giữ lại một lúc. Có người cúi lạy xuống thì ngẩng đầu lên ngay. Tôi không biết cách lạy nào đúng? Ý nghĩa của cách thức lạy ấy thế nào? Kính mong quý Báo hướng dẫn.
(CHÁNH TÂM, tanlochappy@yahoo.com.vn)

ĐÁP:

Bạn Chánh Tâm thân mến!
Đúng như bạn nói, lạy Phật theo cách “ngũ thể đầu địa” là thể hiện lòng tôn kính nhất. Ngũ thể đầu địa có nghĩa là năm vóc (đầu, hai tay và hai chân) gieo sát đất. Theo Phật Quang đại từ điển, tập 3, dẫn sách Đại Đường Tây Vực ký(quyển 2), nói về cách lạy Phật “năm vóc gieo xuống đất” gồm: Trước hết, quỳ gối bên phải (gồm toàn bộ gối, cẳng chân và mu bàn chân) sát đất, kế đến là gối bên trái, rồi đến hai khuỷu tay sát đất, hai bàn tay ngửa ra duỗi thẳng quá trán, sau cùng là đỉnh đầu đặt sát đất, giữ yên một lúc, như thế gọi là một lạy.

Điều cần lưu ý là động tác “hai khuỷu tay sát đất, hai bàn tay ngửa ra duỗi thẳng quá trán”. Động tác này biểu thị cho việc hai tay người lạy nâng bàn chân của Thế Tôn cung kính đảnh lễ .

Ảnh chụp lại từ Phật Quang Đại Từ Điển.

Cho nên, cách lạy này còn gọi là “đầu diện tiếp túc quy mạng lễ” (đầu mặt chạm chân Thế Tôn cung kính lễ lạy). Như vậy, cách lạy mà bạn mô tả “trán cúi chạm xuống đất, còn hai bàn tay ngửa đưa ra phía trước trán” là đúng với cách lạy “ngũ thể đầu địa”.

Một điều nữa cần lưu tâm là “đầu đặt sát đất, giữ yên một lúc”. Việc cúi lạy rồi “giữ yên một lúc” là rất cần thiết vì không chỉ thân mà cả tâm đều cung kính lễ. Do đó, cần một khoảng thời gian để dốc hết tâm tư cung kính lễ lạy Phật. Lạy Phật nên chậm rãi, thong thả mới trang nghiêm và thành kính. Nên, những ai “cúi đầu lạy xuống, giữ lại một lúc” là đúng với quy cách lạy “ngũ thể đầu địa”.

Theo Hoa nghiêm kinh tùy sớ diễn nghĩa sao, khi kính lễ Tam bảo năm vóc gieo sát đất có ý nghĩa nhiếp phục sự kiêu mạn và tỏ lòng thành kính: 

1. Khi gối bên phải sát đất nguyện cho chúng sanh được đạo chánh giác. 

2. Khi gối bên trái sát đất, nguyện cho chúng sanh không khởi tà kiến ngoại đạo, tất cả đều an trụ trong đạo chánh giác. 

3. Khi tay phải sát đất, nguyện như Thế Tôn ngồi tòa kim cương, đại địa rúng động, hiện bày tướng lành, chứng nhập đại Bồ-đề. 

4. Khi tay trái sát đất, nguyện cho chúng sanh xa lìa ngoại đạo, khiến họ vào chánh đạo. 

5. Khi đỉnh đầu sát đất, nguyện cho chúng sanh lìa tâm kiêu mạn, đều được thành tựu vô kiến đỉnh tướng.

Chúc bạn tinh tấn!


Thứ Sáu, 23 tháng 5, 2014

PHONG THỦY ÂM TRẠCH, NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

1 . Rồng đến có thế , phát mạch từ xa

Việc lựa chọn âm trạch , đầu tiên phải xem thế đến của sơn mạch trên phạm vi vĩ mô . Trong phong thuỷ gọi núi đến từ xa là thế , núi ở nơi gần là hình , trước tiên bàn về thế sau bàn về hình , hình là do thế quyết định .



Trong " Táng thư . Nội thiên " có ghi : "Thượng địa chi sơn , nhấp nhô liền giải , là đến từ trời . Như sóng nước , như ngựa phi , thế đến như bay , như long như loan khi cao lên lúc trũng xuống , như đại bàng bổ xuống , như con thú quỳ , vạn vật đều tuân theo " . Ở đây viết " Thượng địa chi sơn " là núi nơi mai táng , đặc điểm của nó là : núi non nhấp nhô trùng điệp , như từ trên trời kéo xuống , như vạn mã phóng bay , hình thành thế lai long , khí thế hùng vĩ " Thầy phong thuỷ lại cho rằng : thế lai long lại uốn lượn uyển chuyển , là rất tốt cho sự hình thành sinh khí to lớn , cho nên trong " Táng thiên . Nội thiên " lại ghi : " Địa thế nguyên mạch , sơn thế nguyên cốt , uốn lượn Đông Tây hoặc là Bắc Nam , ngàn thước là thế , trăm thước là hình . Thế đến hình dừng , là nơi toàn khí . Đất toàn khí an táng phù hợp " . Chính vì thế rồng đến khí thế to lớn có " Toàn khí " cho nên có đặc điểm " Đất cao nước sâu , cây cỏ tươi tốt " . Các nhà phong thuỷ thường căn cứ vào thế lai long lớn nhỏ để xác định đẳng cấp phú quý , vì vậy trong " Táng thư . Tạp thiên " có ghi : " Thế như vạn mã từ trên trời dẫn xuống , táng vương giả . Thế như sóng lớn núi non trùng điệp , táng thiên thừa . Thế như giáng long nước vòng mây lượn , táng tước lộc tam công . Thế như nhà cửa san sát , cây cỏ xanh tươi , táng khai phủ kiến quốc ..." . Không nói đến mối quan hệ giữa thế lai long lớn nhỏ và đẳng cấp phú quý , trong đó có nói đến núi non trùng điệp , nước vòng mây lượn , cây cỏ xanh tươi v.v ..., rất rõ ràng đã thể hiện sự tìm kiếm của con người với môi trường tự nhiên đẹp đẽ . Con người hy vọng rằng sau khi chết đi sẽ trở về trong lòng của đại tự nhiên , tìm kiếm môi trường táng địa lý tưởng là biểu hiện một loại quan niệm về môi trường của người cổ đại .

Thế của rồng đến thường có quan hệ với phát mạch xa xôi . Phát mạch của rồng đều ở nơi những dãy núi hội tụ , cho nên mới gọi là " Lai long thiên lý " , ý nói là huyệt vị phong thuỷ thường có quan hệ với đầu nguồn của long mạch , chỉ có sơn mạch to lớn mới có thể hình thành chi long dài rộng . Như vậy rồng mới có khí thế , huyệt cũng mới có sinh khí . Trong phong thuỷ lấy quan hệ " Tổ tông " để biểu thị giữa can long ( rồng chính ) và chi long ( rồng nhánh ) . " Địa lý giản minh " có ghi : " Nơi phát mạch của đại long phải là nơi gặp gỡ của núi cao đỉnh lớn , gọi là thái tổ ; từ đó mà xuống , lại có đỉnh cao , gọi là thái tông ; thế núi quanh co uốn khúc , lại có đỉnh cao , gọi là thiếu tổ . Từ đây núi thiếu tổ đi xuống , có cao có thấp , nhưng lấy tiết tinh thứ nhất đặt đằng sau đỉnh huyền vũ gọi là phụ mẫu " . Vì vậy , khi xem thế núi phải xem kỹ hình thế của thái tổ , thái tông , thiếu tổ , thiếu tông , phụ mẫu , sau đó mới trên cơ sở núi phụ mẫu và dựa theo lý luận thai tức dựng dục của người để tìm nơi tồn tại của sinh khí , tức là tìm huyệt .

2. Lớp lớp che chắn , từ xa đến gần

Như trên đã nói hình thế to lớn của rồng có quan hệ với phát mạch từ xa , nhưng phát mạch từ xa không phải từ đầu đến cuối là một đường thẳng , mà phải có lớp lớp che chắn , có tầng tầng lớp lớp hộ vệ chủ mạch . Đúng như trong " Táng thư " đã ghi : " Thế như vạn mã từ trên trời rơi xuống , hình dáng như có từng lớp lang " , hình pháp gia cho rằng núi mà không có che chắn thì chủ long sẽ cô đơn , che chắn càng nhiều càng cát tường , vì vậy " Địa học giản minh . Long khai chương " đã nói một cách tổng quát : " Long như mở đường mà đi , là có lực nhất , kim thuỷ mão là trên , thuỷ tinh là thứ , phải có hình dáng như tấm che chắn , được như vậy mới tốt " .
3 . Tứ cục phân minh , bát long hữu dị

Nhà phong thuỷ cho rằng , hình thế của lai long nhìn từ phía bên ngoài có thể chia làm năm loại : tức " ngũ thế - chính thế , trắc thế , nghịch thế , thuận thế , hồi thế " , cụ thể biêủ hiện là : " Long Bắc phát triều Nam đến là chính thế . Long Tây phát Bắc làm huyệt , Nam làm triều , là trắc thế . Long nghịch thuỷ thượng triều , thuận thuỷ hạ thử là nghịch thế . Thân long quay về núi tổ làm triều , là hồi thế " . Hiển nhiên , đây là cách chia của phái hình pháp , lấy hình thế tự nhiên của thân núi để đánh giá lợi hại của môi trường âm trạch , trộn lẫn giữa quan niệm duy vật và duy tâm . Phái lý khí khi bàn về hình thế , chủ yếu dựa vào Ngũ tinh Bát quái và phương vị .

Nhà phong thuỷ căn cứ ngũ tinh ở trên trời đối ứng với ngũ hành của núi sông , cho rằng hình núi trên đất , dốc thuộc Mộc , nhọn thuộc Hoả , vuông thuộc Thổ , tròn thuộc Kim , dài thuộc Thuỷ . Lại dùng lý luận tương sinh tương hợp của ngũ tinh để suy đoán tài quan ấn lộc , dùng 24 sơn hướng để chỉ rõ hướng táng khác nhau .

Hướng Đông thuộc Mộc long , hướng Nam thuộc Hoả long , hướng Tây thuộc Kim long , hướng Bắc thuộc Thuỷ long . Gọi là tứ cục . Lại theo phép tăng giảm của Âm Dương , bốn loại long cục đều có phân Âm Duơng , bắt đầu là Âm long , thịnh là Dương long ...

4 . Huyệt trường phân minh , huyệt hình đa dạng

Môi trường âm trạch về mặt vĩ mô phải là nơi khí thế to lớn , về mặt vi mô phải có huyệt trường rõ ràng . Phạm vi của huyệt trong phong thuỷ rất nhỏ thường gọi là " Huyệt tám thước " , là một miếng đất tấc vuông " Thừa sinh khí , trú tử cốc " , vả lại vị trí rất khó tìm chuẩn , vì vậy trong ca dao cổ có câu : " Nhìn thế tìm long dễ , muốn biết huyệt điểm khó " .

Các sách như " Táng thư " và " Địa học giản minh " đều cho rằng : nơi kết huyệt có liên quan với khí . Trong " Địa học giản minh " đã dùng lý luận thai tức dựng dục để bàn về tình hình kết huyệt của long mạch , trong sách ghi : " Một tiết tinh phía sau đỉnh huyền vũ gọi là phụ mẫu , dưới phụ mẫu nơi mạch rớt xuống là thai , giống như nhận huyết mạch của cha mẹ làm thai vậy . Luồng khí phía dưới đó là tức vậy , lại bắt đầu từ đỉnh huyền vũ tinh diện là dựng , giống như hình thể có đầu mặt của thai nam nữ vậy , nơi dung kết huyệt là dục , giống như đứa con sinh thành từ thai mà dục vậy " . Có thể thấy rằng nơi kết huyệt tương đương với nơi người mẹ sinh con , cũng là khu vực Âm Dương giao cấu mà rất nhiều sách nói tới . Nghĩa là đã xem huyệt phong thuỷ là nữ âm , là nơi " Lấy được khí ra , thu được khí đến " , là nơi nhận được sự thai nghén , là nơi " ém khí " , " dưỡng tức " . Đồng thời cũng là nơi " sinh dục " , " xuất thai " .

Chính vì phong thuỷ cổ đại dùng nguyên lý thai tức dựng dục sinh sản của loài người để giải thích về ý nghĩa của huyệt phong thuỷ , đã làm cho huyệt phong thuỷ lấy tượng trưng là nữ âm , huyệt phong thuỷ được xem như là đất toàn khí , vì vậy con người khi lựa chọn đất ở , đất để chôn cất đều chọn đất có những điều kiện như vậy làm đất tốt nhất , điều này đã hình thành một khuynh hướng tình cảm lâu dài , đem lại một nội dung văn hoá đặc biệt .

Huyệt phong thuỷ đặc biệt nhấn mạnh : " Có được sự tốt đẹp của thai tức dựng dục của tổ tông cha mẹ , lại có toàn khí dung kết ... " . Huyệt hình của huyệt phong thuỷ thường có sự khác nhau do địa hình cục bộ , vì vậy chia ra làm oa huyệt , kiềm huyệt , nhũ huyệt , đột huyệt .

Oa huyệt , theo như trong " Táng thư " là hình giống như tổ chim yến , chôn ở nơi lõm xuống , thường gặp ở nơi núi cao .

Kiềm huyệt , hình dáng giống như hai chân bắt chéo lên nhau như gọng kìm , còn gọi là khai cước huyệt , ở núi cao bình địa .

Nhũ huyệt , huyệt tinh mở ra , ở giữa có nhũ , còn gọi là huyền vũ huyệt , hoặc cũng gọi là nhũ đầu huyệt , ở bình địa núi cao .

Đột huyệt , tinh huyệt bằng , ở giữa nổi lên , còn gọi là bào huyệt . Theo " Táng thư " có hình nồi úp , đỉnh có nhiều kiểu , thường gặp ở bình địa .

5. Núi bao nước vòng , bốn mặt vây bọc

Môi trường âm trạch tốt hay xấu , ngoài long thế long cách , che chắn , huyệt trường như trên đã nói , còn phải xem núi sông bao bọc xung quanh có hữu tình không ,tức là có cấu thành một tiểu môi trường hoà hợp nhất trí không .

Thông thường cho rằng : " Nơi có chính huyệt , núi phải trẻ , hướng trước mặt phải mở rộng , hình thế bốn bên phải chụm , gió phải kín , nước phải tụ ... Sơn minh thuỷ tú phải mưa thuận gió hoà , đất trời sáng sủa , như một thế giới khác , thanh tịnh trong ồn ào , phồn hoa trong thanh tịnh , trông thấy là muốn nhìn , đến gần thấy lòng vui tươi , khí phải tích , tinh phải tụ " .

Đây là một đoạn văn nói về phương diện Phong thuỷ , mà cũng như là một đoạn văn miêu tả về mặt phong cảnh . Trong đó những yêu cầu phải tìm kiếm như " Sơn minh thuỷ tú " , " Mưa thuận gió hoà " , " Thanh tịnh trong ồn ào " , " Đến gần thấy lòng vui tươi " , đây cũng là ý tưởng tìm kiếm về cảnh đẹp thiên nhiên .

" Núi bao nước vòng " trong phong thuỷ , chủ yếu là thể hiện bằng quan hệ giữa sơn và thuỷ . Về quan hệ giữa sơn và thuỷ , các nhà triết học tiền bối đã bàn đến từ lâu . Trong " Chu lễ . Khảo công ký " đã chỉ ra : "Địa thế của thiên hạ , giũa hai núi nhất định phải có sông . Bên sông lớn nhất định phải có đường đi " , cũng có nghĩa núi và sông đồng hành với nhau . Trong " Quản thị địa lý chỉ mộng " cũng có ghi : " Nước đi theo núi , núi ngăn nước . Núi sông phân chia các khu vực , ngăn không cho vượt quá , tích tụ khí . Nước không có núi thì khí tan mà không thể tập trung , núi không nước thì khí hàn . Núi như nhà , nước như tường , ở nhà cao không có tường , không thể phòng vệ được . Núi là thực khí . Đất càng cao khí càng dày . Nước càng sâu khí càng lớn " .Có thể thấy rằng sơn và thuỷ dựa vào nhau để tồn tại , sơn là nội khí , thuỷ là ngoại khí , nội ngoại kết hợp mới có thể tạo thành một chỉnh thể hữu cơ mới có thể làm cho môi trường có sinh khí , mới có thể đạt được " Sơn minh thuỷ tú " , " Mưa thuận gió hoà " . Về môi trường sơn thuỷ xung quanh huyệt trường thông thường được hợp thành được các địa hình như Sa , Thuỷ , Triều , Án . Trong đó Sa , Triều , Án đều là núi ở xung quanh huyệt . " Địa học " của Trầm Cảo đã nói về quan hệ giữa chúng như sau : " Thuỷ nếu vòng vèo uốn khúc thì sa cũng xoay chuyển , sa và thuỷ nguyên là một nhà . Ôm sát hai bên huyệt như cánh ve sầu là long hổ . Thanh long là tên gọi cánh bên trái , bất kể thanh long hay bạch hổ , chỉ cần nước giữ được khí . Giữa long hổ là minh đường , minh đường giống như ngực con người . Phía trước long hổ có án , án phải thấp bằng để có nhìn được xa ,nước chẩy ngang bên trong gọi là trung đường , ngoài án phải có triều sơn , giống như chủ nghiêng mình đón khách " . Có thể tóm tắt những ý chính của nội dung trên là :

Sa thuỷ đồng hành với nhau .

Thanh long , bạch hổ là hai sa sơn bên trái bên phải .

Ở gần phía trước huyệt là núi thấp gọi là án , ở xa phía trước huyệt là núi lớn gọi là triều ( có nghĩa là triều bái ) .

Nơi nước uốn lượn chẩy ra gọi là thuỷ khẩu , hai bên thuỷ khẩu phải có núi cao dựng đứng khép lại gọi là thuỷ khẩu sa . " Núi của thuỷ khẩu phải cao và lớn , vòng mà khép lại , hình thế như vậy mới tốt " . Nước chẩy ra phải chậm rãi uốn lượn , không được chẩy nhanh , nếu không sẽ tổn sinh khí . Vì vậy tại thuỷ khẩu càng nhiều lớp núi càng tốt , " Hám long kinh " có ghi : " Cửa khẩu có ngàn trùng khoá chặt nhất định có vương hầu ở trong đó " . thật ra yêu cầu ở đây vẫn là một loại môi trường tương đối độc lập , yêu cầu môi trường phải tĩnh mịch bình yên, tương đối độc lập với ngoại cảnh , nước chảy vòng vèo , lớp lớp khoá chặt , có cảm giác như lớp lớp che chắn .

Sự phân hợp của sơn thuỷ tạo thành môi trường lớn với núi bao nước vòng , kết hợp với sa , triều , án tạo thành môi trường nhỏ trấn giữ bốn mặt .


LƯỢNG THIÊN XÍCH. St

Thứ Tư, 21 tháng 5, 2014

CHƯƠNG TRÌNH LUẬN GIẢI HUYỀN HỌC VÌ TRƯỜNG SA THÂN YÊU

Trường Sa...nơi đầu sóng ngọn gió, quần đảo tiền tiêu bảo vệ tổ quốc chưa bao giờ xa trong lòng người dân đất Việt. Các thệ hệ cán bộ - chiến sỹ và nhân dân trên đảo mặc dù sống trong hoàn cảnh rất khắc nghiệt của thiên nhiên, phải chịu biết bao mưa giông, bão tố và các trận thịnh lộ của biển cả nhưng vẫn một lòng giữ chắc tay súng bảo vệ biển đảo quê hương.




Những người con đất Việt đó mặc dù gánh vác nhiệm vụ quốc gia, phải sống xa nhà, xa người thân, sống trong hoàn cảnh thiếu thốn rất nhiều những điều kiện tiện nghi của cuộc sống hiện đại, song họ vẫn lạc quan, yêu đời và vững tin vào đất nước, vững tin vào tình đoàn kết đồng bào anh em ruột thịt.

Với tâm nguyện được góp một phần nào đó cùng với nhân dân cả nước đến với Trường Sa thân yêu, góp một phần nào đó cùng với nhân dân cả nước khích lệ, động viên tinh thần đến những người con kiên cường của tổ quốc đang ngày đêm bám đảo Trường Sa. Diễn đàn Lý Số Việt ( http://lysoviet.vn ) tổ chức chương trình luận giải huyền học mang tên "VÌ TRƯỜNG SA THÂN YÊU".

MỤC ĐÍCH:

- Nhằm gây quỹ ủng hộ và động viên tinh thần đến cán bộ - chiến sỹ và nhân dân trên quần đảo Trường Sa. Giúp họ thêm nghị lực, vững tin vượt qua khó khăn, vì nhân dân cả nước đang bằng cách này hay cách khác luôn luôn ủng hộ và hướng tới Trường Sa.

- Thông qua chương trình, chúng tôi hy vọng sẽ tạo thêm động lực để nhân dân cả nước, đặc biệt là thế hệ trẻ thắp lên ngọn lửa nhiệt huyết, sẵn sàng góp công sức của mình vì Tổ quốc Việt Nam.

NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH:

Tư vấn, luận giải các lĩnh vực học thuật phương đông, như

1. Phong thủy
2. Tử vi
3. Nhân tướng
4. Chọn ngày
5. Đông y
6. Dịch lý
7. Chọn số điện thoại

Các nhà tư vấn đều là những người có thâm niên và uy tín trong giới học thuật, đã đồng hành cùng chúng tôi trong các chương trình luận giải trước đó và có được sự tín nhiệm của người đến nhờ tư vấn.

THỜI GIAN TỔ CHỨC CHƯƠNG TRÌNH:

Hai ngày: Thứ bảy 31.05.2014 và chủ nhật 01.06.2014.
Bắt đầu từ 08h00 đến 18h00

ĐỊA ĐIỂM:

Chic cafe. Số 7 Điện Biên Phủ. Hà Nội




Chương trình rất mong nhận được sự ủng hộ của các bạn khắp mọi miền tổ quốc!

Thay mặt diễn đàn Lý Số Việt

LƯỢNG THIÊN XÍCH

Chủ Nhật, 11 tháng 5, 2014

HÀNH TRÌNH TRAO QUÀ TỪ THIỆN TẠI CHÙA QUANG CHÂU - ĐÀ NẴNG

Nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày đất nước thống nhất 30/04/1975 - 30/04/2014, diễn đàn Lý Số Việt ( http://lysoviet.vn ) tổ chức hành trình về chùa Quang Châu, tọa lạc tại xã Hòa Châu - huyện Hòa Vang - Đà Nẵng để đóng góp một chút công sức cùng với nhà chùa nuôi dưỡng các em bé bị bố mẹ bỏ rơi, mất cha mẹ hoặc gia đình ly tán.

Sau đây là một số hình ảnh:












LƯỢNG THIÊN XÍCH